nhà toán học lương thế vinh
Cuộc thi vẽ tranh "Chào mừng Ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11" Bốn câu đố thử tài tính toán 13/10/2022; Liên kết. Cổng thông tin liên kết. Tiểu học Lương Thế Vinh; Tiểu học An Thạnh; Tiểu học Lý Tự Trọng; Tiểu học Bình Thuận;
Khi lựa chọn học thạc sĩ trường đại học Lương Thế Vinh các bạn sẽ tích lũy cho bản thân những kinh nghiệm, kỹ năng, sẽ mang đến sự đa dạng trong từng công việc, tình huống cụ thể. Với những thế mạnh đó, các nhà tuyển dụng sẽ đánh giá rất cao và họ cho rằng
Lý do mà PGS.TS Văn Như Cương phải thốt lên sự hoảng sợ này là bởi vì: "Trong số khoảng 4.000 hồ sơ xét tuyển vào lớp 6 của nhà trường mùa tuyển sinh hai năm qua, có khoảng 1.000 hồ sơ được điểm 10 hai môn Toán, Văn. Và cứ 10 hồ sơ thì có 3 em được giải thưởng các
Vaytiennhanh Home Credit. 1441 – 1495 Nhà thơ, nhà toán học Lương Thế Vinh, tự Cảnh Nghi, hiệu Thụy Hiên, dân gian thường gọi là Trạng Lường. Quê gốc làng Cao Hương, huyện “Thiên Bản, nay thuộc huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Tác phẩm của nhà thơ, nhà toán học Lương Thế Vinh Ông nổi tiếng thông minh, học rộng, thơ văn hay, chí khác người. Thuở nhỏ được mệnh danh là thần đồng. Năm 23 tuổi ông đậu Trạng nguyên khoa Quý Mùi, 1463 đời vua Lê Thánh Tông, được vua trọng tài văn chương. Có sách nói, ông từng làm Sái phu trọng Hội Tao đàn do Lê Thánh Tông thành lập. Được vua tin dùng, ông làm quan trải qua các chức Trực học sĩ, quyền Cấp sự trung khoa công, Thị thư Viện hàn lâm, kiêm Sùng văn quán Tú lâm cục tư huấn. Ông thường được giao soạn thảo các giấy tờ bang giao với Trung Quốc, quan chức ngoại giao nhà Minh khen là giỏi. Lương Thế Vinh là người tiết tháo, không tham công danh phú quý, tính bộc trực, hồn nhiên, hay hài hước. Về già, ông thích sống bình dị thanh nhàn. Lê Quý Đôn khen là bậc “tài hoa danh vọng vượt bậc”. Đương thời có thơ ca ngợi ông “tên tuổi lừng lẫy trong những bậc hiền tài”. Khi ông mất, Lê Thánh Tông làm thơ phúng bằng quốc âm, được dân thờ làm phúc thần. Lương Thế Vinh biên soạn nhiều sách với nhiều lĩnh vực, nhưng một số tác phẩm đã bị thất truyền. Về toán học các sách nói ông có soạn Đại thành toán pháp, hệ thống hóa những thành tựu hình học. số học đương thời và vận dụng vào việc đo đạc ruộng đất, Lương Thế Vinh có soạn sách Hý phường phả lực tổng kết kinh nghiệm và nêu lên thành những nguyên tắc về nghệ thuật biểu diễn. múa hát, đánh trống. Có thể coi đây là tác phẩm lý luận đầu tiên ở nước ta về nghệ thuật hát chèo. Lương Thế Vinh cũng rất am hiểu và sùng Phật, đã từng viết nhiều sách về Phật giáo. Tương truyền ông có soạn sách Thiên môn khoa giáo. Có giai thoại nói rằng, vì ông có soạn những .sách trên bị nhà nho chê là phi kinh trái với kinh điển nho gia nên ông không được thờ ơ Văn miếu ngang với các danh nho khác. Văn chương của ông thường là những bài xướng họa phẩm bình cùng Lê Thánh Tông và các văn thần còn lưu lại rất ít, được chép trong Thiên Nam dư hạ tập Bộ sách biên soạn thời Hồng Đức. Nội dung nổi bật nhất là sự thông cảm với tâm trạng, cảnh ngộ của những người lính trung dũng nơi biên ải. Tương truyền, ông còn là tác giả Bài ký chùa Diên Hựu này là chùa Một Cột, Hà Nội và một số bia mộ mới được phát hiện. Tham khảo thêm tư liệu các nhà văn, nhà thơ, tác giả khác
Lương Thế Vinh chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí và phải vận dụng kiến thức vào cuộc sống. Lương Thế Vinh sinh năm 1441 ở làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam, nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo Vụ Bản, Nam Định. Hồi nhỏ, ông nổi tiếng khỏe mạnh, học một biết mười, nhưng nghịch ngợm cũng bằng mười chúng bạn. Lớn lên một chút, ông được bố mẹ gửi tới học với cụ Giải nguyên Lương Hay ở Hoằng Hóa Thanh Hóa và trở thành học trò giỏi của cụ, đỗ trạng nguyên ngay trong lần đầu lều chõng đi thi vào năm 22 tuổi. Ông Trạng Lường với hơn 30 năm ở chốn quan trường Lương Thế Vinh được gọi là Trạng Lường bởi rất giỏi đo lường, tính toán. Sách Thần đồng xưa của nước ta viết, tương truyền từ thuở nhỏ, có lần chơi cùng chúng bạn dưới gốc cây cổ thụ, cả nhóm thách đố nhau làm thế nào để biết được cây cao hay thấp. Một số cho rằng chỉ có cách trèo lên ngọn cây rồi dùng dây thòng xuống đất mà đo. Riêng Lương Thế Vinh nói không cần. Lương Thế Vinh lấy chiếc gậy đo xem dài ngắn bao nhiêu, rồi dựng gậy lên mặt đất và đo chiều dài bóng gậy. Tiếp đoạn, ông đo bóng cây và sau một lát nhẩm tính đã tìm ra chiều cao của cây. Bọn trẻ không tin bèn dùng thừng nối lại, buộc hòn đá phía dưới rồi trèo lên tít ngọn cây dong thừng xuống đất để đo. Kết quả đúng như Vinh đã tính. "Ngày nay, cách tính chiều cao của cây mà Lương Thế Vinh áp dụng chắc học sinh không lấy gì làm lạ. Nhưng cách đây gần 5 thế kỷ thì việc Lương Thế Vinh tính được tỷ lệ chiều cao của cây và chiếc gậy bằng tỷ lệ bóng của chúng trên mặt đất là một sáng tạo, thể hiện nước ta ở thế kỷ 15 đã có nhà toán học đầy tài năng", tác giả Quốc Chấn viết trong cuốn Thần đồng xưa của nước ta. Trạng Lường Lương Thế Vinh. Học giỏi có tiếng, Lương Thế Vinh tham dự khoa thi Quý Mùi 1463 dưới thời vua Lê Thánh Tông và đỗ ngay trạng nguyên. Sách Đại Việt sử ký toàn thư chép năm đó có tới người dự thi, lấy đỗ 44 người. Phấn khởi trước thắng lợi của khoa thi khi mình mới lên ngôi, vua Lê Thánh Tông đã ban lá cờ khoa, tự tay đề ba vị khoa khôi thành một bài thơ Trạng nguyên Lương Thế Vinh/ Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh/ Thám hoa Quách Đình Bảo/ Thiên hạ cộng tri danh. Sau khi đỗ đạt, Lương Thế Vinh ra làm quan 32 năm, nổi tiếng thanh liêm, chính trực. Ông làm ở Viện hàn lâm, được thăng đến chức cao nhất trong viện. Ông thường khuyên vua chọn người hiền tài, đặt quan chức để "vì dân mà làm việc", nhà vua và triều đình phải "đồng tâm nhất thể"; đồng thời cũng khuyên vua xử tội các quan lại làm sai. Lương Thế Vinh còn được vua giao soạn nhiều biểu sớ quan trọng liên quan đến ngoại giao với nhà Minh. Trong lần làm sứ nhà Thanh, Chu Hy phải thán phục tài năng tính toán của ông. Lần đó, Chu Hy yêu cầu quan trạng cân trọng lượng của một con voi rất to. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục, nhưng tiếp tục đố Lương Thế Vinh đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ quyển sách. Vị quan nhà Lê trả lời rằng chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra. Sứ nhà Thanh khi đó đã phải thốt lên Nước Nam quả có lắm người tài. Ngoài việc triều chính, Lương Thế Vinh tham gia dạy học ở Quốc Tử Giám, Sùng Văn Quán và Tú Lâm cục - những trường cao cấp đào tạo nhân tài cho đất nước thời bấy giờ. Quan điểm giáo dục của thầy giáo có nhiều trò giỏi Trong cuốn Những người thầy trong sử Việt, tác giả Nguyễn Huy Thắng viết Lương Thế Vinh là "người thầy khác mọi thầy". Tác giả cho rằng quan điểm giáo dục của thầy giáo Lương Thế Vinh không giống những bạn đồng liêu. Bằng kinh nghiệm, ông chủ trương học trò cần học tập chuyên tâm, nhưng cũng phải biết kết hợp với giải trí thoải mái, gần gũi với người dân, hòa mình với thiên nhiên và phải tìm mọi cách vận dụng kiến thức đã học vào cuộc sống. Trong số các chế, biểu dâng lên vua, nhiều lần ông mạnh dạn đề xuất những cải cách về học hành, thi cử, đưa việc học xuống tận thôn dân, không ưu đãi các quan lại đương chức trong việc thi cử để chọn đúng kẻ thực tài, quan tâm đến việc dạy đạo đức và những tri thức khác có ứng dụng trong thực tế. Với quan niệm "Thần cơ diệu toán vạn niên sư" ai tính toán giỏi là người thầy muôn đời, Lương Thế Vinh đã dành nhiều tâm huyết để biên soạn cuốn Đại thành toán pháp. Đây là cuốn sách toán học cổ, bằng chữ Nôm, nội dung nói về kiến thức số học, có bảng cửu chương, phép tính nhân, phép bình phương khai căn, đồng phân chia đều; phương pháp đo lường bóng phương pháp tam giác đồng dạng; hệ thống đo lường cách cân, đong, đo, đếm...; cách đo điền, đo diện tích hình vuông, chữ nhật, tam giác, hình tròn... Ở mỗi phần, mỗi phương pháp, Lương Thế Vinh đề một bài thơ cho người đọc dễ thuộc, dễ nhớ. Ví dụ, khi dạy cách tính diện tích hình thang, ông viết "Tam giác bị cụt đầu/ Diện tích tính làm sao/ Cạnh trên cạnh dưới cộng vào/ Đem nhân với nửa bề cao khắc thành. Cuốn sách của Lương Thế Vinh không chỉ nổi tiếng khắp trong nước mà còn vang danh ở cả nước ngoài. Ngoài viết sách toán, Trạng nguyên của triều Lê còn là tác giả của Hý phường phả lục nêu những nguyên tắc có tính lý luận về nghệ thuật biểu diễn, diễn viên, múa hát và đánh trống. Trong thời gian dạy học của mình, Lương Thế Vinh có nhiều học trò đỗ đạt cao như Trần Tất Đạt - tiến sĩ năm 1469, Trần Bích Hoành - thám hoa năm 1478, Trần Xuân Vinh - tiến sĩ năm 1499 và đặc biệt là Lương Đắc Bằng - thầy của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông luôn được học trò quý mến và kính trọng. Ông trạng đa tài Lương Thế Vinh mất năm 1495 tại quê nhà, thọ 54 tuổi. Vua Lê Thánh Tông rất thương tiếc, làm một bài thơ Nôm gửi về phúng điếu. Câu cuối, nhà vua ai oán than "Lấy ai làm Trạng nước Nam ta"? "Hẳn rồi, ý nhà vua muốn nói Lương Thế Vinh đã đi xa, liệu tìm đâu được ai xứng đáng làm Trạng nước Đại Nam này nữa? Nhưng tại sao không thể hiểu rằng, không còn ông nữa, biết lấy ai làm đào tạo ra được những người tài giỏi, những ông nghè, ông trạng như ông từng làm một cách trực tiếp hoặc gián tiếp", tác giả Nguyễn Huy Thắng đặt câu hỏi trong cuốn sách của mình. Quan điểm giáo dục và những đóng góp của Lương Thế Vinh được người đời ghi nhận. Ngày nay, nhiều đường phố, trường học được đặt theo tên của người thầy giáo mẫu mực này. Đền thờ Lương Thế Vinh tại huyện Vụ Bản Nam Định năm 1990 đã được công nhận là di tích văn hóa lịch sử cấp quốc gia.
Ngày đăng 17/07/2013, 0125 Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh tên chữ Cảnh Nghị, tên hiệu Thụy Hiên; 1442–? là một nhà toán học, Phật học, nhà thơ người Việt. Ông đỗ trạng nguyên dưới triều Lê Thánh Tông và làm quan tại viện Hàn Lâm. Ông là một trong 28 nhà thơ của hội Tao Đàn do vua Lê Thánh Tông lập năm 1495. Tiểu sử Lương Thế Vinh sinh ra tại làng Cao Hương, huyện Thiên Bản, trấn Sơn Nam Hạ nay là thôn Cao Phương, xã Liên Bảo, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Từ nhỏ Lương Thế Vinh đã nổi tiếng về khả năng học mau thuộc, nhanh hiểu, và khả năng sáng tạo trong các trò chơi như đá bóng, thả diều, câu cá, bẫy chim. Năm 1463, Lương Thế Vinh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ cập đệ đệ nhất danh trạng nguyên khoa Quý Mùi niên hiệu Quang Thuận thứ 4, đời Lê Thánh Tông. [1] Vua Lê Thánh Tông ban tặng Cờ hoa Tam Khôi cho ba vị đỗ đầu Trạng nguyên Lương Thế Vinh Bảng nhãn Nguyễn Đức Trinh Thám hoa Quách Đình Bảo Thiên hạ cộng tri danh - Thiên hạ đều biết tên Các năm sau đó, ông làm quan với các chức Trực học sĩ, Thị thư và Chưởng viện sự ở viện Hàn lâm. Khi ông qua đời, Vua Lê Thánh Tông rất mực thương tiếc và viết một bài thơ khóc Trạng. Chiếu thư thượng đế xuống đêm qua Gióng khách chương đài kiếp tại nhà Cẩm tú mấy hàng về động ngọc Thánh hiền ba chén ướt hồn hoa Khí thiên đã lại thu sơn nhạc Danh lạ còn truyền để quốc gia Khuất ngón tay than tài cái thế Lấy ai làm Trạng nước Nam ta Giai thoại Có nhiều giai thoại về Lương Thế Vinh. Về sự sáng tạo của Lương Thế Vinh hồi nhỏ, có giai thoại kể rằng một lần trong lúc đang chơi bóng với các bạn, quả bóng lăn xuống một hố hẹp và sâu, tưởng như không lấy lên được. Lương Thế Vinh đã nghĩ ra cách lấy bóng lên bằng việc đổ nước vào hố và lợi dụng việc bóng nổi trên nước để lấy lại quả bóng. Về phong cách học tập của Lương Thế Vinh, có giai thoại so sánh ông với Quách Đình Bảo cũng là người nổi tiếng về thông minh, học giỏi ở vùng Sơn Nam Ngày nay thuộc Thái Bình và Nam Định. Khi sắp đến kỳ thi của triều đình, Quách Đình Bảo thì ngày đêm dùi mài kinh sử quên ngủ, quên ăn; còn Vinh thì thư giãn, thả diều cùng bạn bè. Kì thi đó Quách Đình Bảo đỗ đầu nhưng đến khoa thi Đình kì thi Quốc gia Quý Mùi năm Quang Thuận thứ tư, đời vua Lê Thánh Tông 1463 Lương Thế Vinh đỗ trạng nguyên đỗ đầu, Quách Đình Bảo đỗ thám hoa đỗ thứ 3. Sự sáng tạo khoa học của Lương Thế Vinh được truyền khẩu qua câu chuyện ông tiếp đón sứ nhà Thanh là Chu Hy. Hy đã nghe nói về Lương Thế Vinh, không những nổi tiếng về văn chương âm nhạc, mà còn tinh thông toán học, nên thách đố Vinh cân một con voi. Lương Thế Vinh đưa voi lên một chiếc thuyền rồi đánh dấu mép nước bên thuyền, sau đó dắt voi lên. Tiếp theo, ông ra lệnh đổ đá hộc xuống thuyền, cho đến lúc thuyền chìm xuống đến đúng dấu cũ. Việc còn lại là đưa từng viên đá lên cân và cộng kết quả. Chu Hy thán phục ông nhưng tiếp tục đố ông đo bề dày của một tờ giấy xé ra từ một quyển sách. Khi nghe ông nói chỉ cần đo bề dày cả cuốn sách rồi chia đều cho số tờ là ra ngay kết quả, Chu Hy ngửa mặt lên trời than "Nước Nam quả có lắm người tài!". Lương Thế Vinh cũng được gắn với một vài giai thoại với vua quan nhà Lê. Các giai thoại này cho thấy ông ứng đáp thông minh với vua, có các lời khuyên hợp lý cho vua và răn dạy các quan dưới cấp bỏ thói hách dịch nhân dân. Tác phẩm Về toán học, Lương Thế Vinh đã để lại • Đại thành Toán pháp • Khải minh Toán học Về lịch sử hát chèo • Hỷ phường Phổ lục Về Phật học • Thiền môn Khoa giáo còn gọi là Thích điển Giáo khoa • Bài tựa sách Nam Tông Tự Pháp Đồ sách lịch sử đạo Phật Việt Nam do thiền sư Thường Chiếu, tịch năm 1203, viết ra Lương Thế Vinh nổi tiếng với tài năng toán học. Quyển Đại thành toán pháp của ông được đưa vào chương trình thi cử suốt 450 năm trong lịch sử giáo dục Việt Nam. Ông cũng được xem là người chế ra bàn tính gẩy cho người Việt, lúc đầu làm bằng đất rồi bằng trúc, bằng gỗ, sơn mầu khác nhau, đẹp và dễ tính, dễ nhớ. Các chuyện truyền miệng dân gian còn cho biết tài năng của ông được thể hiện từ khi nhỏ tuổi. Ông được nhân dân gọi tên là Trạng Lường sau khi đỗ trạng nguyên. Ngoài công việc hàn lâm trong triều, Lương Thế Vinh còn được vua giao việc thảo những văn thư ngoại giao với nhà Minh. Triều Minh thường khen ngợi những văn thư ngoại giao này. Dù là một nhà nho lỗi lạc, Lương Thế Vinh cũng sáng tác văn Nôm. Ông được cho là tác giả của Thập giới Cô hồn Quốc ngữ văn, còn gọi là Phật kinh Thập giới. Đây là áng văn Nôm cổ gồm đoạn mở đầu và 10 đoạn nói về 10 giới cô hồn Thiền tăng, đạo sĩ, quan liêu, nho sĩ, thiên văn-địa lý, lương y, tướng quân, hoa nương, thương cổ và đãng tử. Mỗi đoạn có một bài tán và kết thúc bằng bài kệ 8 câu. Vì sáng tác Phật kinh Thập giới, Lương Thế Vinh bị các bạn đồng nghiệp chê và ông không được ghi tên trong văn miếu Khổng Tử. Tuy nhiên, Nhất Hạnh cho rằng Lương Thế Vinh không viết bài này vì bài kệ của đoạn về Thiền tăng có giọng đùa bỡn, không phù hợp với một người có nhiều cảm tình với Phật giáo như Lương Thế Vinh. Theo Lê Mạnh Thát, Thập giới Cô hồn Văn là một tác phẩm của vua Lê Thánh Tông 1442 - 1497. Lương Thế Vinh cũng quan tâm nghiên cứu về âm nhạc dân gian, như hát chèo. Ông được vua Lê Thánh Tông giao cho cùng Thân Nhân Trung và Đỗ Nhuận chế định ra các lễ nhạc của triều đình. Lương Thế Vinh được nhận định là có tính cách bình dị, mến dân, trung thực và khả năng châm biếm khôi hài trong việc răn dạy từ vua đến quan. . Lương Thế Vinh Lương Thế Vinh tên chữ Cảnh Nghị, tên hiệu Thụy Hiên; 1442–? là một nhà toán học, Phật học, nhà thơ người Việt. Ông. Tác phẩm Về toán học, Lương Thế Vinh đã để lại • Đại thành Toán pháp • Khải minh Toán học Về lịch sử hát chèo • Hỷ phường Phổ lục Về Phật học • Thiền - Xem thêm -Xem thêm Nhà toán học Lương Thế Vinh - VN, Nhà toán học Lương Thế Vinh - VN,
nhà toán học lương thế vinh